Đặc Sản Tân Kỳ Nghệ An

Đặc Sản Tân Kỳ Nghệ An

Những món đặc sản Nghệ An luôn là điểm hấp dẫn trong văn hóa ẩm thực của vùng đất rộng lớn này. Hãy cùng Tứ Phương Food khám phá top 5 đặc sản Nghệ An với hương vị hấp dẫn mà bạn không thể chối từ.

Cam xã Đoài - Đặc sản Nghệ An với hương vị thanh tao, dịu nhẹ

Cam xã Đoài là một đặc sản Nghệ An được các tín đồ du lịch đam mê hoa quả cao cấp săn lùng khi tìm về vùng đất này. Loại quả này được ví như “cam nhà giàu” bởi giá bán có phần đắt đỏ và được tính tiền theo từng quả.

Đặc sản Nghệ An này được trồng nhiều ở địa phận huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Sở dĩ cam xã Đoài có giá đắt hơn các loại cam khác bởi nó có hương vị đặc trưng, khác biệt. Cam xã Đoài có vỏ khá mỏng, mịn và cực nhiều nước. Loại cam này còn có hương thơm dịu nhẹ cùng múi vàng óng ánh rất ưa nhìn. Khi thưởng thức, cam xã Đoài sẽ có vị ngọt thanh dễ chịu và không bị chua.

Địa chỉ bán cam xã Đoài ngon ở Nghệ An

• Chợ Vinh: Hồng Sơn, Thành phố Vinh

• Vườn cam xã Đoài: xã Nghi Diên, huyện Nghi Lộc

Nhút Thanh Chương là một dạng thực phẩm muối được làm từ mít non hoặc xơ mít. Nhút Thanh Chương ra đời trong thời kỳ khó khăn, cơm không đủ no. Trong hoàn cảnh đấy, người dân Thanh Chương đã nghĩ ra cách muối mặn mít để ăn dần trong năm. Từ đó, món nhút Thanh Chương ra đời và dần dần trở thành một đặc sản Nghệ An nổi tiếng được nhiều tín đồ du lịch săn đón.

Công đoạn chế biến và muối nhút Thanh Chương cũng không hề dễ dàng. Bạn phải thái sợi mít non, trộn cùng muối và các loại gia vị đặc trưng rồi đem đi nén lại. Sau khoảng thời gian 5 -7 ngày, bạn đem hỗn hợp vừa nén ra vắt sạch nước rồi đem bảo quản trong tủ lạnh.

Với món nhút Thanh Chương, bạn có thể chế biến thành nhiều món ngon với hương vị đặc trưng như canh chua cá lóc, canh lạc, nộm hoặc xoài.

Địa chỉ bán nhút Thanh Chương ngon ở Nghệ An

• Chợ Cồn: Quốc lộ 46A, Thanh Dương, Thanh Chương hoặc các khu chợ quê khác tại địa phận huyện Thanh Chương

Đã nhắc đến nhút Thanh Chương thì bạn không thể bỏ qua tương Nam Đàn. Đây là bộ đôi đặc sản trứ danh của vùng đất này được nhiều tín đồ du lịch nhắc đến và chọn lựa để mua về làm quà cho gia đình.

Tương Nam Đàn là loại gia vị không thể thiếu trong việc nêm nếm các món ăn thường ngày tại Nghệ An. Tương Nam Đàn có vị ngọt nhẹ, bên trong có chứa nhiều đỗ và mùi thơm rất đặc trưng.

Quá trình làm tương Nam Đàn cũng vô cùng kỳ công. Người nghệ nhân chế biến tương Nam Đàn phải trải qua nhiều bước như lựa chọn nguyên liệu, ủ, phơi khô và ngạ tương. Tại Nam Đàn ngày nay còn lưu giữ một làng nghề truyền thống chuyên làm tương. Bạn có thể vừa mua sắm tương vừa tìm hiểu về văn hóa làng nghề tại đây.

Địa chỉ bán tương Nam Đàn ngon ở Nghệ An

• Làng nghề làm tương Nam Đàn: Làng Phan Bội Châu, thị trấn Nam Đàn, huyện Nam Đàn

Nếu được hỏi một món ăn sáng đặc sản ở Nghệ An là gì, các tín đồ du lịch tại đây sẽ không ngần ngại trả lời là cháo lươn Nghệ An. Đây là một món ăn có hàm lượng dinh dưỡng cực kỳ cao mà lại sở hữu hương vị thơm ngon, ấn tượng.

Tại Nghệ An, không khó để bạn có thể tìm kiếm được một hàng bán cháo lươn cùng các món ăn về lươn khác. Mỗi một hàng sẽ có hương vị đặc trưng riêng nhưng đều thổi được cái tình của ẩm thực xứ Nghệ vào trong món ăn này.

Nguyên liệu nấu cháo lươn cũng khá gần gũi, thân quen nên khá dễ để thu hút các tín đồ ẩm thực. Dù thế, cách nấu cháo lươn cũng không hề đơn giản, đòi hỏi người nấu phải cẩn thận trong khâu lựa chọn nguyên liệu và sơ chế lươn sao cho không tanh.

Địa chỉ bán cháo lươn ngon ở Nghệ An

• Cháo lươn Bà Hường cay: 77 Trần Hưng Đạo, Thành phố Vinh

• Cháo lươn Chị Hoa: Cuối đường Thái Phiên - Hồng Sơn, Thành phố Vinh (tính từ Trần Phú đi vào)

• Cháo lươn Bà Ngọ: Ngõ 4 Đốc Thiết, Hưng Bình, Thành phố Vinh

Huyện Thanh Chương ở phía tây nam tỉnh Nghệ An, nằm trong toạ độ từ 18034'42” đến 18053'33” vĩ độ bắc, và từ 104056'07” đến 105036'06” kinh độ đông; phía bắc giáp huyện Đô Lương và huyện Anh Sơn; phía nam giáp tỉnh Hà Tĩnh; phía đông giáp huyện Nam Đàn; phía tây và tây nam giáp huyện Anh Sơn và tỉnh Bôlykhămxay (nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào) với đường biên giới quốc gia dài 53 km. Diện tích tự nhiên của Thanh Chương là 1.128,8678 km2, xếp thứ năm trong 20 huyện, thành, thị trong tỉnh. Địa hình Thanh Chương rất đa dạng có sông có núi có đồi, đó là kết quả của một quá trình kiến tạo lâu dài và phức tạp của thiên nhiên.

Ông Trình Văn Nhã – Chủ tịch UBND huyện Thanh Chương, Nghệ An chia sẻ:  Địa phương, xuất phát điểm gặp rất nhiều khó khăn, tuy nhiên con người nơi đây biết vươn lên, chinh phục mọi thử thách để hướng tới một tương lai tươi sáng hơn.

Huyện và 12 xã đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng LLVTND, Huân chương Lao động hạng Nhì và nhiều phần thưởng cao quý khác.

Để có được kết quả ngày hôm nay chính là sự đồng lòng từ nhân dân và chính quyền Thanh Chương. Người dân theo Đảng, chính quyền luôn gần dân quá trình đó cứ thế mà giúp Thanh Chương “thay da, đổi thịt” từng ngày.

Cũng theo ông Nhã, trong nhiệm kỳ 2020 -2025 đã và đang trải qua, Thanh Chương đã gặt hái được nhiều thành quả nổi bật, như: Chuyển đổi hơn 480 ha đất lúa, đất màu, đất ngập nước kém hiệu quả sang trồng rau màu, cây ăn quả, trồng sen, nuôi cá, làm trang trại, gia trại tổng hợp. Trong đó, có nhiều mô hình đặc biệt như mô hình bí xanh quy mô trên 50 ha tại các xã Thanh Hòa, Thanh Lĩnh, Thanh Xuân, Thanh Yên, Thanh Chi, Thanh Khê, Đại Đồng, mô hình khoai tây quy mô 6,5 ha tại các xã Thanh Yên, Phong Thịnh, Thanh Liên; mô hình trồng tỏi quy mô 1,3 ha tại xã Thanh Lĩnh...

Xây dựng nông thôn mới và Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” – OCOP cũng được coi là dấu ấn của nửa đầu nhiệm kỳ ở Thanh Chương. Ngoài 18 xã đạt chuẩn nông thôn mới thời điểm cuối năm 2020, trong 2 năm qua, huyện có thêm 5 đạt chuẩn nông thôn mới và 3 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao. Sản phẩm OCOP lũy kế đến nay là 20 sản phẩm 3 và 4 sao.

Các công trình xây dựng cơ bản cũng được hoàn thành, và triển khai như: Mở rộng Quốc lộ 46C, đoạn Phong Thịnh đi Cát Văn và Quốc lộ 46C tại ngã ba Thanh Liên đi đường Hồ Chí Minh; đường nối Quốc lộ 46C tại Cầu Mồng đi Sơn Tiến (Hà Tĩnh); kè chống sạt lở đảm bảo dân sinh dọc sông Lam, đoạn đi qua các xã: Võ Liệt, Thanh Chi, Phong Thịnh, Thanh Liên, Cát Văn. Cầu Đò Cung bắc qua sông Lam nối hai huyện Thanh Chương và Đô Lương; đường từ Quốc lộ 46 – xã Ngọc Sơn (huyện Thanh Chương) đi xã Nam Hưng (huyện Nam Đàn), nối Quốc lộ 15A đi Di tích lịch sử Truông Bồn (Đô Lương). Kinh tế tăng trưởng khá, chuyển dịch cơ cấu đúng hướng, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh còn 3,2%; văn hoá xã hội phát triển lành mạnh, giáo dục vẫn là điểm tựa vững chắc để người Thanh Chương đi lên; quốc phòng an ninh được giữ vững; công tác xây dựng Đảng xây dựng hệ thống chính trị được quan tâm thực hiện tốt.

Về dự án và du lịch, đến Thanh Chương bạn không thể bỏ qua khu du lịch đặc biệt nổi bật nhất gắn liên với thiên nhiên là: Đảo chè Thanh Chương, khu vực này có hàng chục ốc đảo chè khác nhau, mỗi đảo có diện tích hơn 1ha. Nếu bạn đến, bạn hãy ngồi trên chiếc thuyền nhỏ, người lái đò sẽ đưa bạn len lỏi qua những ốc đảo xanh, qua đó sẽ cảm nhận được vẻ đẹp độc đáo, trong lành dễ chịu của tự nhiên.

Nhiệm kỳ 2020 – 2025 cũng đúng dịp Thanh Chương kỷ niệm 555 năm ngày có danh xưng, kỷ niệm 94 năm Ngày truyền thống Đảng bộ và Nhân dân huyện Thanh Chương cũng đã được tổ chức vào ngày 10/8 vừa qua. Cũng tại Lễ Kỷ niệm 555 năm danh xưng Thanh Chương (1469 - 2024) này, ông Hoàng Nghĩa Hiếu, Phó Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An đã biểu dương những thành tích mà Đảng bộ và nhân dân huyện Thanh Chương đã đạt được trong những năm qua. Đồng thời đề nghị Đảng bộ, chính quyền, quân và dân Thanh Chương phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang, đoàn kết, dân chủ, kỷ cương đi đôi với năng động, sáng tạo, nhưng đặc biệt không chủ quan, nóng vội mất cảnh giác và quan tâm, nghiên cứu thực hiện tốt 6 mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp đột phá. Khẳng định phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa, xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tiếp tục đầu tư bảo tồn và phát huy giá trị hệ thống di sản văn hóa, lịch sử, gắn với khai thác tiềm năng du lịch của quê hương, gắn kết du lịch tâm linh, du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng, thu hút đầu tư quy hoạch, xây dựng các điểm du lịch mà Thanh Chương có lợi thế.

Ngày nay, Thanh Chương có nhiều cơ hội thuận lợi để phát triển như: Đất đai rộng lớn, dân số đông, Đảng bộ lớn, nhân lực dồi dào, tiềm năng du lịch phong phú, giao thông thuận lợi, có đường Hồ Chí Minh chạy dọc theo huyện, trong tương lai có đường cao tốc Hà Nội – Viêng Chăn chạy qua và cửa khẩu Thanh Thuỷ được thông thương sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế.

Ngoài ra, trong quá trình quy hoạch, mở rộng Thị trấn Thanh Chương và công tác tăng cường thu hút đầu tư vào các cụm công nghiệp gắn với đào tạo nghề cho người lao động (Trong đó chú ý cả đào tạo nghề chất lượng cao), Thanh Chương cũng cần hợp tác với các địa phương của nước bạn Lào khi hệ thống giao thông đường cao tốc Hà Nội - Viêng Chăn qua cửa khẩu Thanh Thuỷ được thông thương để phát triển kinh tế, xã hội.

Có thể nói, trong suốt nhiệm kỳ 2020 - 2025, huyện Thanh Chương đã tạo ra nhiều dấu ấn đặc biệt, làm thay đổi toàn diện bộ mặt nền kinh tế xã hội nói chung. Riêng lĩnh vực kinh tế, cũng có nhiều thành tích vượt bậc.

Theo Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Thanh Chương Trình Văn Nhã thì huyện Thanh Chương ngày nay đã có những đổi thay to lớn. Kinh tế tăng trưởng khá, chuyển dịch cơ cấu đúng hướng, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh. Chỉ tính riêng năm 2023, Tổng giá trị sản xuất của huyện (theo giá so sánh 2010) đạt: 11.015,5 tỷ đồng (trong đó: Nông, lâm, ngư nghiệp đạt: 3.412,6 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 30,98%; công nghiệp - xây dựng: 4.355,2 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 39,54%; dịch vụ: 3.247,7 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 29,48%). Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất ước đạt 7,22%, đạt 76% kế hoạch. Thu nhập bình quân đầu người 48,2 triệu đồng/người/năm, đạt 97,4% kế hoạch. Công tác đầu tư và quản lý đầu tư xây dựng được tăng cường, đã thẩm định 370 công trình, kiểm tra nghiệm thu 117 công trình; cấp giấy phép xây dựng cho 27 trường hợp khu vực thị trấn, tổ chức 03 đợt giải tỏa hành lang ATGT. Thu ngân sách ước thực hiện 168.768 triệu đồng, đạt 85,7% dự toán, bằng 77,3% so với cùng kỳ. Chi ngân sách ước đạt 1.320.723 triệu đồng, đạt 119,2 % dự toán, so với cùng kỳ 100,1%. Từ huyện giao thông "tứ tắc", nay đã có 6 quốc lộ đi qua, 36 bến đò ngang đã được thay thế bằng những chiếc cầu nối những bờ vui; 29 xã đạt chuẩn nông thôn mới, 4 xã nông thôn mới nâng cao, xã Thanh Lĩnh đạt nông thôn mới kiểu mẫu. Thị trấn Thanh Chương đạt chuẩn đô thị văn minh.

Thời gian tới, huyện Thanh Chương tiếp tục thực hiện tốt công tác cải cách hành chính, ứng dụng chuyển đổi số nhanh cả trên ba trụ cột: chính quyền số, kinh tế số, xã hội số. Thực hiện tốt việc sáp nhập các đơn vị hành chính cấp xã gắn với giải quyết cán bộ dôi dư đảm bảo đúng quy định.

Đồng thời với thế mạnh về sản xuất nông nghiệp, Thanh Chương sẽ tích cực chuyển dần từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, tăng cường liên kết và hình thành những chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp hiệu quả cao góp phần xây dựng nền "Nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh".

Cũng theo Chủ tịch huyện Thanh Chương,  quá trình phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa, xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội. Huyện sẽ tiếp tục đầu tư bảo tồn và phát huy giá trị hệ thống di sản văn hóa, lịch sử, gắn với khai thác tiềm năng du lịch của quê hương.

Đặc biệt, huyện sẽ phát huy lợi thế 53km đường Hồ Chí Minh chạy qua để quy hoạch, xây dựng phát triển hành lang kinh tế đường Hồ Chí Minh trong quy hoạch tổng thể xây dựng và phát triển tỉnh Nghệ An theo tinh thần Nghị quyết 39NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển tỉnh Nghệ An đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Phấn đấu trong tương lai, sẽ đưa Thanh Chương trở thành một huyện phát triển của tỉnh Nghệ An nói riêng, cả nước nói chung.

Thanh Chương là một huyện bán sơn địa vừa miền núi, do dãy Trưòng Sơn và sông Lam hợp thành. Sông Lam sau khi chảy qua các huyện Tương Dương, Con  Cuông, Anh Sơn về đến Thanh Chương thì xẻ dọc huyện thành đôi bờ xanh mướt lúa, ngô, khoai, lạc, đậu,... và những vườn cây ăn quả trù mật như Bưởi, Chanh, Chuối,   Tro, Trám. Nhất là vườn Mít. Có vưòn nhiều tới 50-60 gốc, vườn ít cũng có 5-6 gốc. Mít là một trong những cây đặc sản được người Thanh Chương rất quan tâm trồng và chăm bón. Vì cây Mít vừa cho gỗ tốt, lại có màu đẹp để làm nhà, làm đồ gia dụng. Quả Mít chín ăn thơm, ngon, ngọt, bổ. Quả Mít còn xanh nấu canh, luộc, xào... đều ngon. đặc biệt là để nhút ăn dần  quanh  năm. Người nông dân Thanh Chương thường nói:  Khi trong nhà đã có được chum tương, vại nhút là không lo giáp hạt về thực phẩm,  trong ăn uống hàng ngày nữa.

Làm nhút để ăn đã trở thành một nghề truyền thống gắn liền với  cuộc sống  nông nghiệp trồng lúa nước của người dân lao động ở Thanh Chương.  Nhút là một  thực phẩm độc đáo trong văn hoá ẩm thực của vùng Thanh Chương. Phương ngữ ở Nghệ An đã có câu: nhút Thanh Chương, tương Nam đàn. Câu phương ngữ ấy ý nói  đến nhút là nói đến Thanh Chương, nói đến tương là nói đến Nam đàn. Nghề làm nhút ở Thanh Chương có từ bao giờ chưa ai biết rõ. Theo các cụ già người Thanh Chương cho biết cha ông họ kể rằng: Trong các toán thợ làm đình Hoành Sơn trưốc đây ở Khánh Sơn, huyện Nam đàn có một toán thợ là người Thanh Chương, đến mùa mít chín, bà con Thanh Chương đưa mít xuống cho thợ ăn. Toán thợ ăn múi, vứt hạt ra. Hạt mọc thành cây và cho quả. Toán thợ lại lấy quả làm nhút ăn và biếu các toán bạn cùng ăn: Cánh thợ bạn ăn và khen: Ăn nhút đã ngon, uống nước chè xanh cảm thấy nước chè xanh ngon hơn. Nếu vậy thì nghề làm nhút ở Thanh Chương đã  có cách đây trên vài ba thế kỷ. Vì đình Hoành Sơn được xây dựng vào cuối thế kỷ XVIII (1763). Như trên đã nói Nhút là thực phẩm dự trữ để ăn dần của từng gia đình như dưa, cà muối, tương,... chăm lo thực phẩm hàng ngày nói chung, tương, cà, nhút,... nói   riêng cho gia đình thường là các phụ nữ. Vì họ là người nội trợ của gia đình. Vì vậy có thể nói được rằng  tổ sư của nghề làm nhút không ai khác là người phụ nữ, ngưòi nội  trợ của các gia đình trưốc đây ở Thanh Chương, còn nói cụ thể người nào cũng khó. a) Vật liệu để làm nhút Vật liệu để làm nhút gồm có những quả Mít xanh và muôi trắng. Nhút ngon là nhút có sợi nhỏ, mềm, màu vàng sẫm, có vị chua mặn vừa phải và có vị ngọt. để có nhút ngon, người ta phải chọn những quả Mít già (ương xanh) ỏ đàng  đông thân cây, không bị sâu và phải là loại mít bở.  Muối là loại muôi trắng, sạch  không có tạp bẩn. b) Công cụ để làm nhút Công cụ để làm nhút gồm có Một cái vại sành hình  trụ (to,  nhỏ tuỳ  từng nhà) để đựng nhút. Một cái vỉ đan bằng tre, hình tròn có đưòng kính bằng đưòng kính của lòng chiếc vại sành, để dằn nhút xuông cho đều. Một cái dằn bằng gỗ chắc, hình trụ có đưòng kính từ 15-18cm để đặt lên trên chiếc vỉ, nó có tác dụng nén nhút xuống  làm  cho toàn bộ nhút luôn được ngập dưới nước (giống như nêm cà muối luôn ngập dưới nước. Ngoài ra cần 1 cái nống nhỏ, dân Thanh Chương thường gọi là nống gấm), để  làm đồ đựng những quả Mít sau khi đã được làm sạch vỏ ngoài tức da Mít, và Mít đã được băm, thái nhỏ ra. Một số dao như dao băm, dao thái, có lưõi mỏng sắc trơn. Dao thái lưỡi mỏng nhưng có chấu (gọi là dao chấu) hoặc liềm chấu. Dao lưỡi mỏng không có chấu để băm, dao có chấu để thái nhỏ Mít ra thành sợi nhỏ. Hiện nay nhiều người thay dao bằng bàn nạo. Dùng nạo vừa nhanh, sợi nhỏ đều. c) Quy trình công nghệ Khi đã có đầy đủ vật liệu (những quả Mít xanh, muốì ăn)  và công cụ để làm  như vại sành để đựng, dao hay bàn nạo để băm thái,... người ta tiến hành quy trình chế biến. Trưóc hết ngưòi ta gọt sạch tót (vỏ ngoài) những quả Mít đã được chọn để làm nhút. để làm sạch nhựa mà không để nhựa quả Mít vấy vào tay, vào người trong quá trình gọt vỏ (vì nhựa Mít vấy vào vừa bẩn vừa khó rửa sạch) người ta đem đóng vào mỗi quả Mít 1 cái cọc bằng tre hay bằng gỗ để làm cán cầm. Khi gọt vỏ người ta phải đưa quả ra giữa dòng nước chảy hoặc trong chậu nước để gọt. Nhờ có nước nên gọt đến đâu nước rửa sạch nhựa đến đó. Gọt xong mỗi quả, người ta thường dùng dao băm sâu vào trong quả Mít nhiều nhát cho nhựa trong quả Mít ra bằng hết. Gọt xong và làm hết nhựa rồi, người ta để vào nống, rồi băm thái hoặc nạo nhỏ ra thành sợi. Băm thái (nạo) xong, ngưòi ta cho muối vào trộn đều, lượng muối bỏ vào tuỳ theo lượng Mít được băm nhỏ ra. Tỷ lệ giữa muối và nhút không có  công  thức  mà theo kinh nghiệm của người làm. Khi đã trộn đều muối vào, ngưòi ta cho vào cối giã. Nếu ít thì dùng tay vò cho mềm ra. Rồi bỏ vào vại sành khoả đều trên bề mặt, bỏ vỉ vào dằn đá hoặc dằn gỗ lên để nhấn xuống. Sau đó đổ nước muối loãng vào cho ngập vỉ và đậy nắp che bụi lại (nắp che bụi có thể tận dụng cái mẹt hư hoặc cái nón cũ), ủ khoảng 5-6 ngày là dùng được . Khác với tương, thời gian ủ phải phơi nắng tương mới tốt, nhút thì phải để nơi râm mát. Quy trình chế biến đơn giản, phổ biến không có bí mật gia truyền. Thế hệ trưóc truyền nghề cho thế hệ sau. Mẹ hướng dẫn cho con gái và người biết làm sẵn sàng chỉ dẫn cho bạn bè, cho người muốn tìm hiểu. d) Cách ăn nhút đơn giản và thường gặp nhất là Nhút vắt bớt nước, chấm với tương, với nước mắm và kèm theo mấy lá lộc thơm, nhất là với lá kinh giới. Nhà có dầu lạc, người ta   bỏ dầu vào nước chấm thì độ ngon của nhút cũng được tăng lên rất hấp dẫn. Trên là loại nhút ăn thường xuyên,  còn loại nhút ăn ngay,  nói ăn ngay cũng  phải sau 3 ngày. Nguyên liệu cũng là Mít non xanh. Ngoài ra thêm cả Riềng thái nhỏ, Sả băm nhỏ. Nếu Mít non xanh là 1 kg thì Riềng và Sả là 0,1kg. Ba  thứ trên trộn kỹ  với muối vừa phải rồi bỏ vào lon hoặc vại, nén chặt, đổ nưóc sôi để nguội vào, sau 3 ngày là ăn được. Có 3 cách ăn loại nhút này: - Ăn nộm: Lạc hoặc vừng rang lên, giã nhỏ trộn lẫn với lá chanh, lá rau ngổ, lá đinh lăng... rồi cho nhút vào trộn lẫn lần nữa. - Ăn chấm: Lấy nhút ra chấm với nước mắm có thêm gia vị tỏi và ớt. - Nấu canh: Cũng như trên, nhưng thường nấu với lạc rang giã nhỏ hoặc Cá Lóc, Cá Trê,... có thêm gia vị là ớt, mùi tàu  và cà chua. Nhút ăn thưòng xuyên cũng  nấu canh được. Còn có loại nhút bằng xơ mít đã chín, mít ăn múi xong, ngưòi ta gọt lấy xơ: - Nếu là mít bở: Chỉ việc gọt vỏ trộn muối, bỏ vào rồi buộc chặt, độ vài ba  ngày là ăn được. Khi ăn thái nhỏ, chấm với nước mắm có gia vị ốt, tỏi. Loại này, có người gọi đùa là giò nhút. - Nếu là mít dai: Gọt vỏ trộn muối bỏ nước lã đun sôi để nguội ngâm 2 ngày, sau đó xé nhỏ và làm như trên. đó là giới thiệu một số loại nhút phổ biến ở vùng Thanh Chương. Còn làm thế nào cho ngon hơn thì tuỳ tài năng khéo léo của ngưòi phụ nữ trong gia đình. Trước đây ở Thanh Chương trong các bữa tiệc, hoặc tiếp khách của gia đình không bao giờ thiếu 1 đĩa nhút giữa mâm tiệc, nhất là khi có lòng lợn. Nhút ăn kèm    với lòng lợn, thịt luộc càng làm tăng thêm độ ngon vốn có của các món ăn khác. Ở Thanh Chương, nhút làm ra để tự cung tự cấp trong gia đình, khi cần ai xin cũng cho. Giá trị kinh tế tuy không cao nhưng rất được nhiều ngưòi ưa chuộng vì dễ chế biến. Nó là món ăn gần gũi quen thân, nguyên liệu sẵn có, rẻ tiền lại rất sạch, không bị nhiễm độc.

Ca dao có câu: đừng khinh dưa nhút, tương cà Tuy không lịch lãm nhưng mà sạch trong

Nhút là một nét văn hoá ẩm thực truyền thống của vùng dân cư Thanh Chương. Người Thanh Chương đi khắp muôn phương, đến đâu đều làm nhút đến đó, đều ăn   nhút và đều không quên mất vị của món nhút. Chính vì thế mà nhút đã trở thành món hàng thực phẩm ở các chợ đô thị. Trong cơ chế thị trường, các món ăn truyền thông đặc sản đang được phục hồi, nhất là món ăn truyền thông hấp dẫn. Nếu cải tiến và nâng cao quy trình công nghệ thì chất lượng nhút chắc sẽ hấp  dẫn và giá trị hàng hóa tăng lên. Tiềm năng nguyên liệu dồi dào,  đủ điều kiện để làm  đồ hộp xuất khẩu tốt.

Nguyễn Văn Phúc                                                                                                                                                                    Cán bộ BQL Dự Án FMCR